Đặc trưng Chim_lặn_mỏ_đen

Chim trưởng thành có thể dài tới 61–100 cm (24-40 inch) về chiều dài với sải cánh 122–152 cm (4–5 ft), hơi nhỏ hơn một chút so với chim lặn mỏ trắng ("chim lặn mỏ vàng"). Trọng lượng dao động trong khoảng từ 1,6 tới 8 kg (3,6 tới 17,6 pao). Trung bình một con chim lặn mỏ đen dài 81 cm (32 inch), sải cánh 136 cm (54 inch) và cân nặng khoảng 4,1 kg (9 pao).

Chim lặn mỏ đen sinh sản tại Canada, các khu vực tại miền bắc Hoa Kỳ, GreenlandAlaska. Có một quần thể nhỏ (khoảng 3.000 đôi) tại Iceland. Trong một số trường hợp chúng có thể sinh sản tới tận miền viễn bắc của Scotland. Thuần thục sinh dục khi đạt 2 năm tuổi, sống tới 20+ năm. Chim mái đẻ 1-3 trứng trong các ụ bùn đất và cây cỏ rỗng, gần với mặt nước. Cả chim bố lẫn chim mẹ đều xây tổ, ấp trứng và chăm sóc chim non. Mùa sinh sản từ tháng 5 trở đi, khi kết thúc lũ mùa xuân do băng tuyết tan.

Loài này trú đông tại các vùng duyên hải hay trên các hồ lớn tại một khu vực rộng lớn hơn, bao gồm vùng duyên hải phía tây châu Âuđảo Anh cũng như tại tây và tây nam Bắc Mỹ.

Chim trưởng thành khi vào mùa sinh sản có bộ lông với đầu đen, bụng trắng, lớp lông phủ lưng và hông màu đen-trắng hình bàn cờ. Bộ lông khi không phải mùa sinh sản có màu hơi nâu, với cằm và trước cổ màu trắng. Mỏ màu lam-đen, nằm ngang. Màu và tư thế của mỏ là đặc điểm phân biệt với chim lặn mỏ trắng.

Loài này, giống như mọi loài chim lặn khác, là chuyên gia ăn , chúng có thể lặn sâu tới 60 m (200 feet) khi săn mồi. Các loại thức ăn nước ngọt bao gồm cá chó, cá pecca, cá thái dương, cá hồicá lư; các loại thức ăn nước mặn bao gồm cá rô biển, cá bơn, cá hồi nâucá trích.

Loài chim này cần một khoảng cách lớn để lấy động lượng khi cất cánh và trở nên vụng về khi đậu trên mặt đất. Sự vụng về này là do hai chân của nó nằm ở phía sau của thân: đây là lý tưởng cho việc lặn nhưng lại không phù hợp cho việc đi lại. Khi đậu xuống mặt nước, chúng là dọc theo phần bụng để chậm lại, chứ không phải trên các chân, do chúng ở quá xa về phía sau thân. Chúng bơi lội tốt trên mặt nước, lặn khỏe và có thể bay xa hàng trăm kilômét để di trú. Khi bay, cổ của chúng kéo dài ra, hai chân xuôi về phía sau, thường kèm theo tiếng kêu có có giai điệu đặc biệt, có thể dùng tiếng kêu này để nhận ra một con chim lặn đang bay.

Chim lặn thường làm tổ trên các hòn đảo, nơi những loài săn mồi thông thường khó có thể tiếp cận chúng. Tuy nhiên, trứng và chim non cũng hay bị mòng biển, quạ, gấu trúc Mỹ, chồn hôi, chồn vizon, cáo, rùa cá sấu và các loài cá lớn ăn thịt. Chim trưởng thành ít khi bị săn bắt, nhưng đôi khi bị rái cá biển (khi trú đông) và ó biển đầu trắng ăn thịt.[3] Ưng biển cũng quấy nhiễu chim lặn, nhưng có lẽ là để cướp thức ăn chứ không phải săn chúng làm mồi.[4] Khi các loài săn mồi đến gần chim lặn hay tổ của chúng, chim lặn đôi khi tấn công những con vật này bằng cách lao tới và cố gắng mổ vào bụng, lưng, cổ hay gáy chúng.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chim_lặn_mỏ_đen http://archives.cbc.ca/economy_business/banks/clip... http://www.ns.ec.gc.ca/wildlife/loons/ http://www.sbaa.ca/projects.asp?cn=303 http://www.flickr.com/search/groups/?w=42637302@N0... http://ibc.lynxeds.com/species/great-northern-dive... http://sdakotabirds.com/species/common_loon_info.h... http://www.birds.cornell.edu/AllAboutBirds/BirdGui... http://animaldiversity.ummz.umich.edu/site/account... http://digitalcommons.unl.edu/bioscidivingbirds/ http://www.mbr-pwrc.usgs.gov/id/framlst/i0070id.ht...